Tác dụng Tu chính án 19 Hiến pháp Hoa Kỳ

Áp phích BẦU, Liên hiệp phụ nữ bầu cử, 1920Quảng cáo của Tạp chí Ladies Home nhắm phụ nữ bầu cử cho cuộc bầu cử tổng thống 1920

Hành vi bầu cử của phụ nữ

Tu chính án thứ 19 phê chuẩn cho phép 26 triệu phụ nữ Mỹ bỏ phiếu, kịp với cuộc bầu cử tổng thống 1920.[96] Nhiều nhà lập pháp lo sợ rằng khối phụ nữ mạnh mẽ sẽ nổi dậy trên chính trường Mỹ, dẫn tới thông qua luật như Luật Sheppard-Towner bảo vệ thân phận người mẹ và thời thơ ấu 1921, mở rộng chăm sóc người mẹ trong thập niên 20.[97] Phụ nữ mới được bầu và các nhóm phụ nữ ưu tiên chương trình cải cách thay vì lòng trung với đảng, mục tiểu đầu tiên là Luật Sheppard-Towner, là luật an sinh xã hội liên bang đầu tiên và tạo ra sự khác biệt lớn trước khi hết hạn vào năm 1929.[98] Các thành công khác ở cấp liên bang về lao động phụ nữ và quyền công dân phụ nữ bao gồm thành lập Cục phụ nữ trong Bộ lao động vào năm 1920 và thông qua Luật Cable vào năm 1922.[99] Sau cuộc bầu cử tổng thống 1923, chính khách nhận thấy khối phụ nữ họ sợ không tồn tại và họ không cần phải quan tâm đến các "vấn đề phụ nữ".[100] Sự hình thành của khối bầu cử phụ nữ tìm ở nhiều thời điểm tùy theo nguồn, từ thập niên 50[101] đến 1970.[102] Trong năm 1970, khoảng cách giới tính trong bầu cử toàn quốc nổi lên, phụ nữ thường bầu ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử tổng thống.[103]

Theo nhà khoa học chính trị J. Kevin Corder và Christina Wolbrecht, ít phụ nữ đi bầu trong cuộc bầu cử toàn quốc đầu tiên sau khi Tu chính án thứ 19 ban hành. Năm 1920, 36% số phụ nữ đủ tư cách đi bầu (so với 68% số nam). Mức đi bầu thấp của phụ nữ một phần do các rào cản bầu cử khác như kiểm tra biết chữ, yêu cầu cư trú lâu và thuế bầu. Sự không có kinh nghiệm với bầu cử và ý tưởng dai dẳng rằng phụ nữ đi bầu là không đúng cũng có thể giữ mức bầu thấp. Khoảng cách tham gia thấp nhất giữa nam và nữ ở các tiểu bang cân ngang đương thời, ở các bang có tranh cử ngang sức hơn như Missouri, Kentucky và những nơi rào cản bầu cử ít.[104][105] Đến năm 1960, phụ nữ đi bầu nhiều hơn nam và khuynh hướng phụ nữ tham gia bầu cử cao hơn tiếp tục vào năm 2018.[106]

Hạn chế

Phụ nữ Mỹ gốc Phi

Người Mỹ gốc Phi đã giành được quyền bầu cử, nhưng với 75% thì chỉ trên danh nghĩa mà thôi bởi các khẽ hở hiến pháp ngăn họ hành sử quyền lợi. Trước khi tu chính án thông qua, giới chính khách miền nam giữ vững lòng tin không cho phép phụ nữ gốc Phi đi bầu.[107] Họ không chỉ phải đấu tranh cho quyền bầu cử của mình mà còn cho quyền của đàn ông gốc Phi.[108]

Ba triệu phụ nữ phía nam của Đường Mason-Dixon tiếp tục không được bầu cử sau khi tu chính án ban hành.[107][109] Công chức bầu cử thường xuyên chặn không cho tiếp cận thùng bỏ phiếu.[110] Khi phụ nữ gốc Phi cố đăng ký, công chức tăng dùng các biện pháp mà Brent Staples trong bài quan điểm cho tờ New York Times gọi là gian lận, hăm dọa, thuế bầu và bạo lực chính phủ.[111] Năm 1926, một nhóm phụ nữ cố đăng ký ở Birmingham, Alabama bị công chức đánh đập.[112] Những sự kiện như vậy, lời hăm dọa bạo lực, mất việc và hành vi nguy hại hợp pháp hóa ngăn phụ nữ da màu đi bầu.[113] Cho đến khi Tu chính án thứ 24 ban hành năm 1962 thì Quốc hội và các tiểu bang mới bị cấm quy định bầu cử phải trả thuế bầu hay các thuế khác, mở đường cho nhiều cải cách trong Luật quyền bầu cử năm 1965.

Người Mỹ gốc Phi tiếp tục đối mặt những rào cản ngăn đi bầu cho đến khi phong trào mới nổi lên vào thập niên 50 và 60 coi quyền bầu cử là dân quyền.[107][112] Gần một ngàn công nhân dân quyền tụ hội ở miền nam để ủng hộ quyền bầu cử làm một phần của Mùa hè Tự do. Tuy nhiên, công chức tiểu bang tiếp tục từ chối đăng ký cho đến khi Luật quyền bầu cử năm 1965 thông qua, cấm kỳ thị chủng tộc với bầu cử.[110][113] Lần đầu tiên, tiểu bang bị cấm áp đặc hạn chế kỳ thị lên điều kiện bầu cử và các cơ chế thành lập cho phép chính phủ liên bang thi hành các điều khoản.[112]

Các nhóm thiểu số khác

Người Mỹ bản xứ có được quốc tịch theo Luật Quốc hội vào năm 1924,[114] nhưng chính sách tiểu bang ngăn họ đi bầu. Năm 1948, cựu chiến binh Thế chiến thứ hai đi kiện, khiến người Mỹ bản xứ được bầu ở New Mexico và Arizona,[115] nhưng vài bang tiếp tục cấm cho đến năm 1957.[112]

Thuế bầu cử và kiểm tra biết chữ ngăn phụ nữ latino đi bầu. Ví dụ, ở Puerto Rico phụ nữ không được bầu cử cho đến năm 1929, nhưng chỉ phụ nữ biết chữ mới được cho đến năm 1935.[116] Bên cạnh đó, việc gia hạn Luật quyền bầu cử năm 1975 bao gồm yêu cầu lá phiếu và vật liệu bầu cử song ngữ ở vài vùng, làm phụ nữ latino bầu dễ hơn.[112][113]

Luật nhập cư quốc gia ngăn người châu Á có được quốc tịch cho đến năm 1952.[45][112][113]

Hạn chế khác

Sau khi Tu chính án thứ 19 ban hành, phụ nữ vẫn có các hạn chế chính trị. Phụ nữ phải vận động nhà lập pháp tiểu bang, kiện tụng và làm phong trào viết thư để giành được quyền tham gia đoàn phụ thẩm. Ở California, phụ nữ giành quyền làm phụ thẩm viên bốn năm sau khi Tu chính án thứ 19 ban hành. Ở Colorado thì mất đến 33 năm. Phụ nữ tiếp tục đối mặt trở ngại vật khi tranh cử chức vụ công cử, và Tu chính án bình quyền sẽ ấn định quyền lợi bình đẳng cho phụ nữ vẫn chưa được thông qua.[117][118][119][120]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tu chính án 19 Hiến pháp Hoa Kỳ http://www.blacksuffragette.com http://www.blacksuffragette.com/nacwc-2 http://www.blacksuffragette.com/the-church http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?n... http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?n... http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?n... http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?n... http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?n... http://fortune.com/2018/08/01/hillary-clinton-stev... http://www.nashcountrydaily.com/2018/09/18/dolly-p...